Cố đô Hoa Lư Ninh Bình vốn nổi tiếng là vùng đất địa linh nhân kiệt. Với lịch sử trải qua ba triều đại phong kiến Đinh, Lê, Lý nơi đây đồng thời cũng phát triển nền văn hóa tín ngưỡng tâm linh đặc sắc. Trong đó, thể hiện rõ nhất ở các công trình đền, chùa, miếu,… cùng các câu truyện truyền thuyết nhuốm màu huyền ảo.
Nằm trong khuôn viên của Khu du lịch sinh thái Thung Nham, có một khu điểm tâm linh nổi tiếng linh thiêng bao gồm: đền Gối Đại, Linh Thần Miếu và Cây Đa “di chuyển” vẫn được người dân địa phương truyền tụng và tôn thờ cho đến ngày nay.
Ở vị trí trung tâm của khu du lịch sinh thái Thung Nham là ngọn đồi tâm linh – nơi tọa lạc của Đền Gối Đại, Linh thần miếu và Cây đa di chuyển.
Theo tập quán xa xưa, người dân Việt Nam khi chọn vị trí xây dựng đền luôn chọn nơi có vị thế đẹp và phong thủy hanh thông. Khu vực này nằm ở thế “tựa núi trông sông” – sau lưng là dãy núi hùng vĩ của rừng nguyên sinh Hoa Lư, trước mặt là hồ Tiên phẳng lặng xanh màu ngọc bích. Toàn bộ ngọn đồi như một đóa sen bung nở, nổi bật giữa vùng thung lũng. Chính vì vậy, khu vực này được cho là vùng đất của thánh thần, là chốn linh thiêng, thanh tịnh, nơi có thần linh ngự trị.
Ở khu tâm linh này, người dân kết hợp tín ngưỡng thờ Mẫu cùng với thờ thần Quý Minh. Bên cạnh đó còn thờ Đức Thánh Việt Vương – một vị tướng tài dưới triều Đinh. Trải qua nhiều thập kỉ, khu điểm tâm linh này đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân làng Nham.
Không chỉ là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, Thung Nham còn được biết đến với những công trình mang giá trị văn hóa, lịch sử tín ngưỡng.
Tọa lạc ở vị trí cao nhất gần đỉnh đồi là đền Gối Đại. Tên gọi Gối Đại được ghép từ “gối” – nghĩa là “ gối tiếp” và “đại” trong “triều đại”, ý chỉ sự nối tiếp từ thời đại này qua thời đại khác. Có thể thấy, tên gọi của ngôi đền thể hiện tâm nguyện của người xưa: mong ước cho đất nước muôn đời độc lập, thái bình thịnh trị.
Hậu cung ngôi đền thờ Tam tòa thánh Mẫu, bao gồm: Mẫu đệ nhất Thượng Thiên (cai quản vùng trời) được đặt chính giữa mặc sắc phục màu đỏ, Mẫu đệ nhị Thượng ngàn (cai quản vùng rừng núi) mang sắc phục màu xanh ở bên phải và Mẫu đệ tam Thoải phủ (cai quản vùng sông nước) mang sắc phục màu trắng ở phía trái. Ban ngoài đền thờ Ngũ vị tiên ông và ba ông Hoàng. Cánh hữu thờ Đức Thánh Việt Vương, cánh tả thờ Bà chúa bản đền (người cai quản đền thiêng). Ngoài ra, bên phải ngôi đền còn có “động Sơn Trang” thờ bà Chúa Sơn Trang cùng 12 thánh cô. Điểm đặc biệt của ngôi đền nằm ở sự kết hợp đa dạng nhiều văn hóa tín ngưỡng: từ tín ngưỡng thờ Mẫu đến tín ngưỡng thờ Thần.
Truyền thuyết kể lại rằng, Đức Thánh Việt Vương là một trong những công thần phò tá vua Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước Đại Cồ Việt. Năm 968, sau khi vua lên ngôi, vị tướng anh hùng đã tình nguyện về mảnh đất này để trấn giữ cửa thành phía Tây kinh thành Hoa Lư và sống ẩn tại đây đến lúc mất. Khi ông qua đời, nhà vua cho xây ngôi đền ngay dưới gốc Đa để tỏ lòng tiếc thương và nhắc nhở người đời sau ghi nhớ công lao ông.
Nói đến thời đại Đinh Bộ Lĩnh hào hùng, sử sách xưa còn ghi lại truyền thuyết về dải núi Tướng thuộc dãy Tràng An. Khi đó, dãy núi này được xem là vọng gác tiền tiêu bảo vệ phía Tây kinh thành Hoa Lư. Năm 966, đất nước Đại Việt rơi vào thời kì loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh phất cờ khởi nghĩa, đánh Đông dẹp Bắc liên tiếp giành thắng lợi. Ông được người dân suy tôn là Vạn Thắng Đại Vương. Tương truyền rằng, sau những trận thắng lớn, Đinh Bộ Lĩnh cùng các tướng lĩnh của mình lại lên đỉnh núi Tướng mở tiệc khao quân, ăn mừng và ca khúc khải hoàn suốt cả đêm ở đây. Tên gọi “núi Tướng” cũng từ đó mà ra.
Sau này, khi Đức Thánh Việt Vương mất và được xây dựng miếu thờ, ngôi miếu cũng quay mặt hướng về đỉnh núi Tướng như tâm nguyện của vị tướng tài năm xưa mãi nhớ về thời kì oanh liệt vẻ vang cũng như tấm lòng trung quân ái quốc của ông còn sống mãi.
Ngôi miếu hiện nay mang giá trị sử học khi còn lưu trữ lại nhiều cổ vật quý. Các cổ vật được ghi nhận bao gồm: 5 tấm đá xanh ghép nên 1 bàn thờ và 2 bát hương (1 hình trụ tròn, 1 hình chữ nhật) làm bằng đá xanh mịn với hoa văn chủ đạo là “lưỡng long chầu nguyệt”. Theo nghiên cứu, hai bát hương này có từ thời Hậu Lê (khoảng TK XVI). Linh thần miếu luôn được người dân địa phương quan tâm thờ cúng và săn sóc, hương khói chưa bao giờ nguội lạnh. Cũng như tấm lòng người dân nơi đây luôn ghi nhớ công lao của vị tướng tài năm xưa.
Đứng sừng sững giữa núi rừng Thung Nham, tỏa bóng xanh rờn che Đền Gối Đại và Linh Thần miếu là cây đa cổ thụ ngàn năm tuổi. Theo khoa học, dòng si và đa khi đạt từ 300 – 330 năm tuổi cây sẽ tiến hành thay thân, thân chính của cây già và mục nát đi, thay vào đó là các rễ phụ bám xuống đất ngày càng phát triển trở thành thân mới. Quá trình này gọi là các bước di chuyển. Các nhà khoa học nghiên cứu, cây Đa tại Thung Nham có niên đại hơn 1000 năm tuổi, đã tiến hành 3 bước di chuyển, hiện cây đang di chuyển ở cuối bước ba, đầu bước tư. Vị trí ban đầu của cây cách vị trí hiện tại 20m. Đây cũng chính là lí do mà cây có tên gọi là “Cây Đa di chuyển”.
Hiện nay, điểm tâm linh chiêm bái được ban quản lí khu du lịch Thung Nham chăm sóc, thờ tự và gìn giữ như một chốn linh thiêng tôn quý. Những hoa thơm trái ngọt đầu mùa cùng những sản vật quý của địa phương luôn được kính cẩn dâng lên đền. Hàng năm, ban quản lí khu du lịch cùng người dân bản địa thường làm lễ cầu bình an, sức khỏe, cầu cho quốc thái dân an. Khu điểm tâm linh Thung Nham đã trở thành nơi gìn giữ nét đẹp “uống nước nhớ nguồn”, đồng thời cũng góp phần tạo nên không gian văn hóa tín ngưỡng đặc trưng của vùng đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần.